Nguồn khí trong nước dần suy giảm: Sản xuất điện thêm khó khăn

Trong 3 tháng cuối năm 2019 và các năm tiếp theo, việc vận hành hệ thống điện của EVN phải đối mặt với nhiều khó khăn.

 
 

Vận hành phát điện tại phòng điều khiển trung tâm nhà máy Nhiệt điện Phú Mỹ 2.1. Ảnh: Ngọc Hà/Icon.com.vn
 
Trong 3 tháng cuối năm 2019 và các năm tiếp theo, việc vận hành hệ thống điện của EVN phải đối mặt với nhiều khó khăn, trong đó: Nhu cầu điện dự báo tiếp tục tăng trưởng cao, trong khi hệ thống điện hầu như không có dự phòng nguồn điện; mực nước các hồ thủy điện đang ở mức rất thấp, đặc biệt các hồ thủy điện lớn trên dòng sông Đà ở mức nước thấp hơn rất nhiều so với cùng kỳ các năm gần đây; cung ứng than cho phát điện hết sức khó khăn. Bên cạnh đó, các Nhà máy Nhiệt điện phải huy động cao; tổng công suất các nguồn điện năng lượng tái tạo đã đưa vào vận hành và dự kiến tiếp tục tăng cao ảnh hưởng đến việc vận hành an toàn, ổn định hệ thống điện. Các nguồn phát điện từ khí đốt  tham gia trong cơ cấu nguồn phát là khoảng 13% về công suất và 18% về sản lượng, tuy nhiên, những năm gần đây nguồn khí trong nước đã dần suy giảm và còn khó khăn trong thời gian tới. 
 
Khí đốt cho phát điện chỉ đáp ứng khoảng 66% nhu cầu
 

Kiểm tra vận hành phát điện nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ 1. Ảnh: Ngọc Hà/Icon.com.vn
 
Hiện nay, khu vực Đông Nam bộ có 8 nhà máy điện (NMĐ) sử dụng nhiên liệu khí với tổng công suất 5644 MW. Khu vực Tây Nam bộ có NMĐ Cà Mau 1 và 2 (gồm 4 tổ máy) sử dụng nhiên liệu khí với tổng công suất là 1.500 MW.
 
Tính từ năm 2010 đến nay, trung bình hàng năm sản lượng khí cấp cho các NMĐ là 7,96 tỷ m3 (trong đó có 6,49 tỷ m3 khí cấp cho các NMĐ khu vực Đông Nam bộ và 1,47 tỷ m3 khí cấp cho các NMĐ khu vực Tây Nam bộ), chưa đáp ứng được nhu cầu huy động tối đa của các nhà máy. Nhu cầu khí để vận hành tối đa các tổ máy điện trong khu vực Đông Nam Bộ là 23,9 triệu m3/ngày khu vực Tây Nam Bộ là 6,4 triệu m3/ngày. Như vậy, nếu tính tổng nhu cầu khí cho phát điện thì cần khoảng 30.3 triệu m3/ ngày.
 
Từ giữa năm 2018, các mỏ lô 06.1 và 11.2 đã có hiện tượng suy giảm rõ rệt. Đặc biệt trong năm 2019, lũy kế trong 10 tháng đầu năm, tổng sản lượng khí cấp cho phát điện đạt 6,83 tỷ m3 (trong đó khí cấp cho các NMĐ khu vực Đông Nam bộ là 5,62 tỷ m3, khí cấp cho các NMĐ khu vực Tây Nam bộ là 1,2 tỷ m3). Khả năng cấp khí từ nguồn khí khu vực Đông Nam Bộ đạt trung bình khoảng 16 triệu m3/ngày và Tây Nam Bộ đạt trung bình khoảng 3,97 triệu m3/ngày, tổng lượng khí cung cấp được hiện nay đối với cả hai nguồn  cấp được khoảng 20 triệu m3/ ngày, so với mức nhu cầu là 30.3 triệu m3/ ngày, chỉ đáp ứng khoảng 66% nhu cầu sản xuất điện từ nguyên liệu khí.
 
Từ năm 2020, nguồn khí cho phát điện chỉ đáp ứng 53%
 
Với tốc độ tăng trưởng phụ tải và tình hình phát triển nguồn điện hiện nay thì trong giai đoạn từ năm 2020 - 2025, dự kiến nhu cầu khí cho phát điện trung bình sẽ rất cao từ 8.5-9.5 tỷ m3/năm trở lên, nhưng ngay cả với thời điểm hiện tại thì khả năng cung cấp khí của PVGas luôn thấp hơn nhiều so với nhu cầu.
 
Theo dự báo kế hoạch cung cấp khí cho phát điện, khả năng cấp khí cho các nhà máy điện khu vực Đông Nam bộ dự kiến từ 6,5-7,5 tỷ m3/năm trong giai đoạn 2020-2023, tăng lên trên 9 tỷ m3/năm trong 02 năm 2024-2025, và giảm dần trong các năm tiếp theo. Tuy nhiên, khả năng cấp khí trong giai đoạn 2020 - 2030 lại phụ thuộc nhiều vào tiến độ các nguồn khí mới như Sao Vàng – Đại Nguyệt, các dự án đường ống Nam Côn Sơn giai đoạn 2, cảng LNG Thị Vải và khả năng khai thác các mỏ hiện hữu do đã bước vào giai đoạn suy giảm. Khả năng cấp khí cho các nhà máy điện khu vực Tây Nam Bộ trong trường hợp không ký được hợp đồng mua khí bổ sung từ Petronas là 1,06 tỷ m3/năm và trong trường hợp mua được khí bổ sung có thể cấp được từ 1,8-2,1 tỷ m3/năm.
 

Kiểm tra vận hành phát điện nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ 1. Ảnh: Ngọc Hà/Icon.com.vn
 
Bên cạnh đó, để hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng với các NMĐ BOT, PVGAS cho biết từ ngày 1-1-2020 sẽ chỉ cung cấp khí cho các nhà máy điện khu vực Đông Nam bộ tối đa khoảng 13,524 triệu m3/ngày và trước đó từ ngày 13-10-2019 sản lượng khí cấp cho các nhà máy điện khu vực Tây Nam bộ bị giảm xuống còn 2,5 triệu m3/ngày (trong trường hợp không thống nhất được giá mua khí bổ sung từ Petronas). Với kế hoạch này, tổng lượng khí cấp trung bình ngày cho phát điện từ cả hai nguồn khí Đông Nam bộ và Tây Nam Bộ dự kiến còn khoảng 16 triệu m3/ngày, thấp hơn so với hiện nay từ 4-5 triệu m3/ngày, tức là chỉ đáp ứng được khoảng 53% nhu cầu phục vụ phát điện giai đoạn từ 2020 trở đi. Riêng trong năm 2020, tổng lượng khí dự kiến cấp cho phát điện chỉ khoảng 6 tỷ m3, thấp hơn nhiều so với kế hoạch. 
 
Hiện nay, khả năng cấp khí của lô 06.1 và 11.2 (cấp cho khu vực Đông Nam bộ) đã suy giảm đáng kể, với sản lượng hiện khai thác lần lượt là 8 triệu và 1,6 triệu m3/ngày thay vì 16 triệu và 5 triệu m3/ngày như trước đây. Theo đó, việc thiếu khí lô 06.1 và 11.2 sẽ ảnh hưởng tới việc hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng với các NMĐ BOT. Nếu duy trì sản lượng khai thác khí từ lô 06.1 và 11.2 như hiện nay, thì sẽ thiếu khí cho các NMĐ BOT từ năm 2023; dự kiến tổng lượng khí thiếu cho các NMĐ BOT cho đến khi hết hợp đồng vào năm 2025 là 3,01 tỷ m3. 
 
Trước những khó khăn trong việc khai thác nguồn điện khí phục vụ phát điện, EVN và PVGas đã xây dựng các phương án cấp khí nhanh cho khu vực Đông Nam bộ từ nguồn LNG. Song, trước mắt, để đảm bảo cung cấp điện trong năm 2020 (ưu tiên cung cấp điện trong mùa khô), EVN đã đề nghị PVGas duy trì cung cấp khí cho khu vực ĐNB ở mức 18,38 triệu m3/ngày (tương tự như đã thực hiện trong năm 2019); đẩy nhanh tiến độ đàm phán với Petronas, đảm bảo lượng khí cấp cho các NMĐ Cà Mau - khu vực Tây Nam bộ như hiện nay, ở mức khoảng 4.18 triệu m3/ngày. Bên cạnh đó, EVN tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp giải tỏa công suất các nguồn điện năng lượng tái tạo; tập trung huy động cao sản lượng điện từ các nhà máy nhiệt điện than, đồng thời huy động thêm các nguồn nhiệt điện dầu giá cao với mục tiêu đảm bảo cung cấp điện phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội.
 
Cùng với các giải pháp trên, EVN đẩy mạnh thực hiện các chương trình quản lý nhu cầu điện, điều chỉnh phụ tải điện, sử dụng điện tiết kiệm, hiệu quả để giảm nhu cầu phụ tải điện vào giờ cao điểm của hệ thống điện, góp phần đảm bảo cung cấp điện ổn định, tin cậy cho hệ thống điện quốc gia và hệ thống điện khu vực.
 
Trong năm 2020, Bộ Công Thương sẽ xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị thay thế Chỉ thị số 34/CT-TTg ngày 7-8-2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường tiết kiệm điện trong phạm vi cả nước

  • 24/12/2019 08:46