Thủy điện Sông Bung: chuyển đổi số góp phần nâng cao độ tin cậy trong sửa chữa, bảo dưỡng

Sau hơn 02 năm triển khai chuyển đổi số trong công tác bảo dưỡng và sửa chữa (BDSC) tập trung vào độ tin cậy của thiết bị Reliability Centered Maintenance (RCM) và theo tình trạng vận hành – Condition Based Maintenance (CBM), Công ty Thủy điện Sông Bung (TĐSB) đã đạt được kết quả khả quan góp phần nâng cao độ sẵn sàng và độ tin cậy của hệ thống thiết bị, cải thiện an toàn lao động, tối ưu hóa chi phí.

Công nhân, Kỹ sư bảo trì tiến hành công tác BDSC - NMTĐ Sông Bung 2
 

Nhằm triển khai có hiệu quả công tác chuyển đổi số trong BDSC, TĐSB hướng tới mục tiêu lựa chọn chiến lược BDSC và phương pháp kiểm tra đánh giá tình trạng thiết bị; xác định 100% hệ thống thiết bị phải được thực hiện công tác BDSC theo RCM/CBM là một trong những nhiệm vụ trọng tâm.

Từ cơ sở trang thiết bị hiện có, Đơn vị đã ứng dụng các công cụ phân tích nguy cơ sự cố và nguyên nhân sự cố để cụ thể hóa chiến lược BDSC. Các bộ phận chuyên môn có liên quan kết hợp với đội ngũ vận hành dày dặn kinh nghiệm tại các Nhà máy Thủy điện Sông Bung 2 (NMTĐ SB2) và Nhà máy Thủy điện Sông Bung 4 (NMTĐ SB4) đã thu thập dữ liệu vận hành và phân tích đánh giá dữ liệu thông qua các dữ liệu được số hóa như: Hệ thống điều khiển phân tán - Distributed Control System (DCS); hệ thống điều khiển và thu thập dữ liệu - Supervisory Control and Data Acquisition (SCADA); các bộ điều khiển logic - Programmable Logic Controller (PLC) và bộ điều khiển giao diện người - máy Human Machine Interface (HMI); giá trị độ rung đảo, tăng nhiệt độ, độ ồn, mức độ mài mòn, tín hiệu cảnh báo, v.v … nhằm phân tích đánh giá tình trạng thiết bị đưa ra biện pháp BDSC các tổ máy một cách tối ưu nhất.

Ngoài ra, TĐSB luôn quan tâm đến vấn đề nâng cao ứng dụng số quản lý thiết bị và lập kế hoạch BDSC. Dựa trên kết quả phân tích RCM, lịch BDSC của hệ thống thiết bị Nhà máy đã được tổng hợp và phân bổ theo thời gian: định kỳ hằng tháng, định kỳ 2 tháng, định kỳ 3 tháng, định kỳ 6 tháng, định kỳ hằng năm, định kỳ 6 năm. Như cách phân bổ hạng mục công việc BDSC theo thời gian cho hệ thống Tuabin thủy lực SB2 là một ví dụ:
Phân bổ hạng mục công việc theo thời gian định kỳ

Công nghệ phát triển cũng đem đến sự chuyển dịch trong việc ứng dụng số vào BDSC, từ đó tạo ra một hệ thống quản lý BDSC hiệu quả, linh hoạt và dễ kiểm soát. Hiệu quả thể hiện qua việc khai thác, hệ thống hóa dữ liệu vật tư, phiếu công việc, lập kế hoạch BDSC... Linh hoạt thể hiện qua việc có thể điều chỉnh áp dụng các phương pháp BDSC khác nhau hoặc kết hợp với các chức năng phân nhóm thiết bị, đánh giá nguy cơ sự cố… Dễ kiểm soát thể hiện qua kết quả các bước thực hiện, các loại báo cáo, phân tích đánh giá đều trực quan, trực tiếp hiển thị cho các nhà máy điện, các tổ máy và các hệ thống thiết bị.
So với công tác BDSC thông thường thì việc ứng dụng số vào công tác BDSC đã được Công ty triển khai có chất lượng kỹ thuật nâng cao hơn hẳn. Theo đó, tỷ lệ Bảo dưỡng theo tình trạng và chủ động chiếm khoảng 70% và tỷ lệ công việc bảo dưỡng bị động khá thấp khoảng 10%.

Tuy nhiên để đánh giá và phân tích dữ liệu các chế độ làm việc của thiết bị để đề ra chiến lược BDSC tối ưu hơn nữa thì cần đến các kỹ sư vận hành, kỹ sư bảo trì, chuyên gia có năng lực hoặc sử dụng phần mềm chuyên phân tích, dự báo tình trạng thiết bị. Nhưng, với sự chủ động tự nghiên cứu học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn của kỹ sư, nhân viên vận hành, nhân viên bảo trì cùng với chiến lược đúng đắn của Ban Lãnh đạo, chúng ta có quyền tin tưởng rằng quá trình chuyển đổi số trong công tác BDSC của đơn vị nói riêng và EVNGENCO2 nói chung sẽ thành công, góp phần nâng cao năng suất lao động, an toàn công trình và hiệu quả trong quản lý điều hành sản xuất kinh doanh trong thời gian tới. 

 
Mai Đức Quý - Phòng Kỹ thuật An toàn

  • 02/01/2024 09:08
  • Nguồn EVN.GENCO2